Tất cả mọi câu chuyện đều là những câu chuyện thật, nhất là lời nói dối hay ho mà chúng ta nghĩ ra để làm thỏa mãn con người suy tư và đầy ước vọng trong chúng ta, bởi vì những câu chuyện dối ấy trình bày ra cho chúng ta, thường dưới một cái mặt nạ và ở một khoảng cách rất xa, bản chất mà chúng ta hiện là hoặc là mong muốn được như vậy. Được kể bằng một thứ tiếng nói cũng duy nhất như những đường vân trên các ngón tay của con người, là những thăng trầm, những hiện thực nơi đây và lúc này của chúng ta. Chúng đến, tôi nghĩ, từ một khát vọng, cũng khó cưỡng lại được như tình yêu, khát vọng ghi lại trên một trang giấy một khoảnh khắc, một khoảnh khắc đã thực sự trải qua, chịu đựng hay là tưởng tượng ra, khi một điều gì đó - một sự việc hay một ý tưởng hay một con người vụn vặt - tự để lộ mình ra và lúc điều đó đến nó làm tắt đi cái tiếng bùm bùm bùm thường ngày vẫn làm tai ta điếc đi không nghe thấy chính mình. Dù có một kết cục vui vẻ hậu hỉ hay không, các câu chuyện cũng là những sự thật chúng ta để lại đàng sau, giống như những mẩu vụn bánh kể lại rằng chúng ta đã đến và kể lại những điều chúng ta trông thấy.
Để mang đến cảm hứng, để hướng thiện, như một nửa ngu xuẩn của tôi vẫn ước trở thành, tôi phải kể cho bạn nghe về cha tôi. Điên khùng, bị thôi thúc và thành khẩn như một người hùng chưa từng có. Dấu ấn của ông đã xuất hiện trong trên mươi truyện của tôi: ông là con người thanh lịch, trong bộ đồ chơi golf hay là bộ complet, đang bùng ra một trong những cơn thịnh nộ thường kỳ, đang ngã tới ngã lui trong phòng thay đồ đàn ông hay trong ngân hàng; chính ông ấy, trong tiểu thuyết mà tôi dựng lên, với một trí thông minh về đạo đức ghê gớm, con người thô bạo và ồn ào, con người nói cho người khác (thường thường là tôi, bạn có thể đoán) biết phải xử sự ra sao và khi nào phải ý thức và khi ở vào bên phía thua thiệt của những thứ mình yêu thì nó như thế nào.
Trong tiểu thuyết, ông hay ra lệnh, hay cấm đoán như một ông thần của sự thuần khiết, sắc sảo như một ông luật sư về làng, sơ cứng nhưng một đám lông lợn, thô ráp và không tha thứ; trong tiểu thuyết, ông làm nên cái khung cảnh mà có khi tôi là công dân sống trong đó, ông chịu đựng và ông cứu vớt (hoặc không), làm sai và hỗ thẹn (hoặc không), nhìn thấy sự thật và bị đập vỡ (hoặc không). Trong truyện, với sự thống nhất, với khuôn mẫu và sự nhận thức của tiểu thuyết, tôi hiểu được cha tôi. Tôi biết một cách chính xác ông muốn nói gì khi ông bảo tôi rằng chỉ cần bắt tay và nhìn xáp đánh giày của một người ta có thể biết được đó có phải là một người tử tế hay không. Tôi biết, và có thể đặt thành lời một cách chính xác, ý nghĩa nào nằm ở trong một sân cỏ được cắt xén đàng hoàng, sự khôn ngoan nào nằm trong sự sắp xếp ngăn nắp các bát đĩa ăn đã được lau khô. Trong tiểu thuyết, tối biết - có lẽ như Flannery O'Connor biết - tại sao bọn vô thần mất tự chủ.
Nhưng trong đời thật thì khác. Đời thật thì lộn xộn và khôn lường và ngắn ngủi, không phải là tiểu thuyết tốt. Tôi không hề biết cái gì làm cho thế giới của ông quay tròn và quay tròn. Những dữ kiện thì rõ ràng với tôi, nhưng xương thịt thì không. Ông có đi Dartmouth, tôi biết. Ông thi nhảy sào với hai tay chéo nhau. Một người anh chết trong vụ đổ quân chết chóc trên đảo Bataan; một người chị chết trong một tai nạn đắm thuyền trên hồ Sasebo ở Maine. Cha của ông bị mù vào những năm cuối đời; mẹ ông tiêu phí hết một gia tài được thừa hưởng ít nhất một triệu đô la. Ông là một người phóng đãng, tôi nghe nói lại, một tên phóng đãng tóc chải láng hay la cà ở khu bến thuyền của bãi biển Old Orchard và đi xuống Miami vào mùa đông. Ông lấy mẹ tôi, cô con gái được cưng chiều quá mức của một nhà quản lý bảo hiểm người Canada ở Harlingen, Texas, khi ông đang học ở một trường bắn súng trong thế chiến thứ II. Họ sống ở Panama, nơi tôi được sinh ra. Ông chơi golf chuyên nghiệp trong một năm. Ông trở thành một người lính chuyên nghiệp, đi Anh, Triều Tiên, Đức, từ chức hai lần vì có một ai hay một điều gì đó làm ông phẫn nộ.
Nếu điều Willa Cather nói là đúng, rằng "những chất liệu căn bản để một nhà văn sáng tác được thu thập trước tuổi mười lăm", thì vào năm đó tôi là một học sinh lớp mười trường trung học Las Cruces, New Mexico, đã nói với thầy cô và với chính tôi rằng tôi sẽ trở thành một nhà văn, chất liệu thu thập được tôi thu thập từ cha tôi: góp lại từ những buổi dạ hội, hội quán miền quê, hội quán sĩ quan, của những bạn nối khố tên là Red và Goonch và bác Inches trong thế giới của một công tước. Tất cả đủ bi kịch, đủ nước mắt cho một cậu bé thi sĩ hiếu chiến là tôi. Mẹ tôi nghiện rượu, phải vào viện năm tôi mười hai tuổi; cha tôi là người hay uống. Ông bị vảy nến, đầu gối sần sùi và khuỷu tay sần sùi, ông hút thuốc như quỷ sứ, ông ném một đầu cây đánh golf vào máy truyền hình, ông mặc bộ đồ màu hồng có hoa văn để đi dự trận giải vô địch hội quán, ông thường trực nhốt tôi trên phòng, ông cho rằng tôi và em tôi phải biết sự thật và nói sự thật ấy ra không thêm bớt - đấy là chất liệu của tôi, một nồi tả pín lù sướt mướt nhầy nhụa, một thứ tiếng người bù lu bù loa, tôi hoàn toàn không có một ý thức nào về cái trách nhiệm tôi mang cho đến cái buổi chiều mùa hạ đầy cảm hứng mà tôi có ở đây phần nào là để kể về nó.
Ngày xưa có một lần (nói cho cùng, không văn hoa sáo ngữ sao, câu mở đầu cho mỗi huyền thoại chúng ta muốn trải qua và viết lại?), cha tôi và tôi ở nhà một mình. Tôi muốn nói rằng hôm đó là chủ nhật, bởi vì trong trí nhớ của tôi ngày ấy có một "cảm giác" long trọng, gần như thiêng liêng. Trong trí nhớ của tôi, trên căn gác dưới mái nhà, nơi tất cả những gì thật sự mường tượng được đều có thể được tìm thấy, có ánh nắng của ngày chủ nhật chiếu xéo, đầy bụi li ti và uể oải, nặng nề và luôn luôn có nguy cơ chùng chình đứng lại. Cha tôi, mặc quần short và áo đánh golf, đang ở trong phòng có máy truyền hình, đang uống thứ rượu rum mà ông ưa thích; ông có một thói quen, bây giờ tôi nghĩ thói quen ấy thật đáng bực mình, là bỏ những viên nước đá đã dùng nửa chừng trở lại vào tủ đá, một thói quen làm cho cô gái sau này thành vợ tôi thấy tởm mỗi lần tôi mang cho nàng một ly coca cola có mùi rượu rẻ tiền. Tôi đang ngồi ở phòng khách, tôi nghĩ vậy, đang nghe các dĩa nhạc, hay có lẽ hơn, đang đọc - Báo ảnh Thể thao, National Geographic, tạp chí Life.
Sở thích của tôi ngày ấy là những loại văn xuôi tức thì, viết mau, kiểu văn chặt và nóng. Mila 18 của Leon Uris. Người trần truồng và người chết (vẫn còn là một cuốn sách rất hay, xin nói thêm), Phiêu lưu trên đại dương của Alistair MacLean. Tôi tự thấy mình cũng viết một cuốn sách như vậy một ngày nào đó - một cuốn sách được thai nghén từ hormone của đàn ông và chí khí nam nhi kiểu vàng thô, một cuốn sách đầy chất liệu và thẳng thừng như những lời quảng cáo ngoài bìa bọc "Ông Abbott", lời giới thiệu sẽ được in, "viết như một thứ văn giết người (...)" (Chuyện này xảy ra lâu lắm trước khi tôi nhận ra Henry James đúng khi nói rằng "kinh nghiệm là một không gian của trí tuệ." ) Dù sao tôi chỉ mới là một đứa trẻ. Gầy guộc, với một cái đầu hớt sát và mười lăm cái mụn, nửa phần tâm trí của tôi bị con gái chiếm lãnh, nửa phần kia dành cho danh vọng (trong lối suy luận mà lúc đó tôi là nạn nhân, danh vọng sẽ mang lại con gái).
Từng giờ trôi qua vào buổi chiều chủ nhật ấy, như chúng luôn trôi qua khi tôi tự đắm mình trong cơn nước thủy triều nguy hiểm của quá khứ: chiếc đồng hồ ở bên trên chiếc bàn giấy cũ xưa ngân lên mỗi mười lăm phút, cha tôi đi qua đi lại giữa cái tủ lạnh và tủ rượu, Pee Wee Reese hay là Dizzy Dean nói trong căn phòng xem ti vi những gì mà bọn lưu manh nói, đứa con trai trong một gian phòng khác đang chắp nối lại trí tưởng tượng trù phú nhưng điên rồ của mình trong một huyền thoại côn đồ làm dựng đứng tóc tai, một tường thuật về súng ống và bọn ngốc cám ơn và đám táo gan đến vừa cùng lúc. Chúng tôi đang là chính mình, cha tôi và tôi: một người, già hơn, đã điều chỉnh tai để nghe những tiếng động lục cục của thế giới bên ngoài; người kia, xương thịt trẻ hơn xương thịt người vừa nói, điều chỉnh tai để nghe hoàng hôn bên trong, của trí tưởng tượng và thêu dệt. Chợt cha tôi ùa vào phòng khách, nhìn tôi như thể muốn khẳng định một lần cuối tôi đã sửa soạn đủ để hứng lấy cái gánh nặng ông sắp sửa ném trước lối đi của tôi hay chưa, và ông nói, đã hơi say một chút, "Theo tao ra đây."
Ông đã suy nghĩ về mình, bây giờ thì tôi thấy rõ như thế. Một bản kê khai, từng lằn gạch làm dấu, một gạch, rồi một gạch, rồi một gạch, rồi một gạch, đã được vạch xuống: ba lần nhồi máu cơ tim, một mảng phổi to bằng nắm tay bị mổ bỏ tại bệnh viện đa khoa William Beaumont tai Ft. Bliss, những tiếng nấc vì đau đớn trên sân golf, nỗi giận dữ khổng lồ, phiền não về một đời bị bẻ quặt đi đàng nào, những hy vọng cao đến trời ông đã tin vào, nỗi đắng cay thấy mình nhỏ nhoi hơn người hùng ông đã tự hứa trở thành. Tôi không hề biết điều này lúc đi theo cha tôi đi ra ngoài và đi vào gian chứa đồ nghề ở cuối nhà để xe. Tôi chỉ biết là ông đã say một nửa. Tôi chỉ biết là ồng năm mươi sáu tuổi, đầu bạc xám và cứng cỏi. Tôi biết ông thù ghét đi làm tại bưu điện, làm cái nghề ông làm ngày ấy, giám sát và thanh tra và, đây là điều bất hạnh lớn nhất của ông, phải báo cáo về những người ăn cắp tiền hay là tem hay là cuỗm một số báo Playboy của một khách hàng nào đó.
"Nhìn chưa, Kit?", ông nói. Ông đang đứng giữa phòng chứa đồ nghề, máy cắt cỏ ở đây, bình xăng ở đàng kia, tường treo đây những dụng cụ tôi không bao giờ hiểu nổi hết công dụng của chúng. Có những cây đánh golfl, một thùng đựng banh tập, hộp đựng dầu, dẻ lau đầy dầu mỡ, một cái cuốc, một cái cào, một cửa hàng vật dùng rẻ tiền mang mùi cũ kỹ và quá nhiều mùi lờ lợ. "Mày muốn làm nhà văn, hử?" ông nói, vung cánh tay, rồi kéo tôi theo ông. Ông gầm gừ chữ nhà văn, âm thanh chứa đầy lòng khinh bỉ dành cho sự ngu xuẩn và ngây thơ của tôi. Dụa vào tường, cao tận trần nhà, là một đống những hộp, rương, hòm từ thời quân đội hiệp chủng quốc và từ trung đoàn đã một thời là nơi nương náu của cha tôi, chủ quán Lyman Kittredge Abbott ở Portland, Maine. Bây giờ tôi thích nghĩ là tôi biết chúng tôi sắp sửa đến một nơi nào đó, cha tôi và tôi, và tôi, có lẽ là lần đầu, sẽ hiểu ông một cách chính xác. Bây giờ tôi thích nghĩ là tôi lúc đó đã đủ khôn để biết mình đang đứng trước sự hiện diện của một sự thật to lớn hơn cả hai chúng tôi, giá trả cho sự thật đó chúng tôi sẽ tiếp tục trả hoài, một sự thật khẩn thiết hơn sự hiểu biết rằng chúng ta chết đi và không có ngày sống lại. Đây là khoảnh khắc, bây giờ tôi thích nghĩ lúc đó tôi thế nào khi khám phá ra thế giới tàn nhẫn như thế nào, khi ta bị đóng đinh vào một thứ gì đó, nó bị cắm vào ta bởi một cái rìu lớn.
Rồi ông đập toang những chiếc hộp, chiếc rương nói trên. Trong cơn giận dữ, trong tiếng thở hồng hộc, ông dằn chúng xuống, từng cái một, ông la lên: "Tránh ra, cây đổ!" khi chiếc hộp trên cùng đổ nhào xuống. Chúng va xuống đất và vỡ ra, và tôi cố lui ra một chút, khi đó ông ném một chiếc sau lưng và dày xéo lên một chiếc khác để dằn lấy một chiếc thứ ba. Ông la hét, mày phải biết, tất cả giọng New England trong tiếng nói của ông vang lên trong căn phòng hỗn độn, và có lẽ tôi cũng thấy sợ. Một cơn thịnh nộ như thế tôi đã từng chứng kiến ở một nơi nào khác, trên sân golf, đàng sau tay lái của chiếc xe Ford của ông, trong phòng khách khi một nhân vật nào đó trong thế chiến hiện nguyên hình ra một tên rồ dại. Nhưng ở đây có một cái gì đó lớn hơn là một cơn thịnh nộ: ở đây có nỗi đau, một thứ đau đớn đặc biệt, riêng tư và được chôn sâu trong xương sống của cha tôi. Không có một cái tên bằng tiếng La tinh hay một bài thuốc hay một bộ máy nào khác hơn là tiểu thuyết có thể trị được nó.
"Viết nó hết ra đi!" ông đang la hét. "Viết hết những thứ trời đánh ấy ra đi!"
Và ở đây, từ một điểm X nào đó trên thế giới, số nhà 1855 Cruse, cha tôi, run lật bật vì rượu và vì cái sức nặng kinh khủng của chính đời mình, đang đánh giá một cách nghiêm trang mục đích phải viết văn. Cung cách nghiêm trang ấy lúc đó tôi chưa có được. Nó là đây, cha tôi nói. Đóng thùng và cất kỹ, lên danh sách và lưu trữ, năm từng năm trôi đi, nơi từng nơi mất đi. Nó là đây: cái đến và cái đi, gầy dựng và đổ vỡ, niềm vui và nước mắt. Nó là đây, cha tôi nói. Tất cả thịt da và thần kinh và tiếng vỡ loảng xoảng của con người, sự thiếu thốn và thừa mứa của nó, con vật bị tổn thương, quay cuồng, nói năng lạo xạo là chúng ta đây. Và tất cả những điều mày phải làm, con trai, thằng nhỏ, là viết nó ra. Viết hết những thứ trời đánh ấy ra!
Đây, tôi nghĩ, là phần cảm hứng. Nếu chúng ta viết cho một mục đích nào khác hơn là giản dị để có được những thời khắc dễ chịu - và tin tôi, có được những thời khắc dễ chịu thì không có gì sai cả - thì bởi vì chúng ta ai cũng ít nhiều cảm nhận được cái bổn phận đối với cha, đối với mẹ của chúng ta, đối với tất cả những con người dù có liên quan máu huyết hay không, những người đã nuôi nấng chúng ta; một bồn phận cũng quan trọng đối với bản chất đạo đức của chúng ta như trái tim của ta đối với sự sống, bồn phận đối với những nơi chốn chúng ta đã được nuôi lớn lên, trong những kiến thức chúng ta đã học được ở đó. Chúng ta muốn, tôi hy vọng, viết nó ra, bởi vì không có cách nào khác để thực hiện bồn phận đó hết, viết ra và biến đổi, vuốt thẳng nó ra. Khi chúng ta tốt nhất, chúng ta không chỉ viết vì tiền, dù tiền là thứ dễ chịu; cũng không viết vì sự nổi danh, dù nổi danh cũng dễ chịu như vậy. Chúng ta viết, dù là mới vào nghề hay là đã chuyên nghiệp, bởi vì, dù một nửa trong ta đầy sợ sệt, chúng ta muốn biết cái gì nằm trong những chiếc hộp và những chiếc rương mà chúng ta vác đi hoài về phía trước, qua mọi thời, những bí mật nào những chiếc hộp ấy có thể bung ra cho mọi người thấy được.
Lee K. Abbott
Để mang đến cảm hứng, để hướng thiện, như một nửa ngu xuẩn của tôi vẫn ước trở thành, tôi phải kể cho bạn nghe về cha tôi. Điên khùng, bị thôi thúc và thành khẩn như một người hùng chưa từng có. Dấu ấn của ông đã xuất hiện trong trên mươi truyện của tôi: ông là con người thanh lịch, trong bộ đồ chơi golf hay là bộ complet, đang bùng ra một trong những cơn thịnh nộ thường kỳ, đang ngã tới ngã lui trong phòng thay đồ đàn ông hay trong ngân hàng; chính ông ấy, trong tiểu thuyết mà tôi dựng lên, với một trí thông minh về đạo đức ghê gớm, con người thô bạo và ồn ào, con người nói cho người khác (thường thường là tôi, bạn có thể đoán) biết phải xử sự ra sao và khi nào phải ý thức và khi ở vào bên phía thua thiệt của những thứ mình yêu thì nó như thế nào.
Trong tiểu thuyết, ông hay ra lệnh, hay cấm đoán như một ông thần của sự thuần khiết, sắc sảo như một ông luật sư về làng, sơ cứng nhưng một đám lông lợn, thô ráp và không tha thứ; trong tiểu thuyết, ông làm nên cái khung cảnh mà có khi tôi là công dân sống trong đó, ông chịu đựng và ông cứu vớt (hoặc không), làm sai và hỗ thẹn (hoặc không), nhìn thấy sự thật và bị đập vỡ (hoặc không). Trong truyện, với sự thống nhất, với khuôn mẫu và sự nhận thức của tiểu thuyết, tôi hiểu được cha tôi. Tôi biết một cách chính xác ông muốn nói gì khi ông bảo tôi rằng chỉ cần bắt tay và nhìn xáp đánh giày của một người ta có thể biết được đó có phải là một người tử tế hay không. Tôi biết, và có thể đặt thành lời một cách chính xác, ý nghĩa nào nằm ở trong một sân cỏ được cắt xén đàng hoàng, sự khôn ngoan nào nằm trong sự sắp xếp ngăn nắp các bát đĩa ăn đã được lau khô. Trong tiểu thuyết, tối biết - có lẽ như Flannery O'Connor biết - tại sao bọn vô thần mất tự chủ.
Nhưng trong đời thật thì khác. Đời thật thì lộn xộn và khôn lường và ngắn ngủi, không phải là tiểu thuyết tốt. Tôi không hề biết cái gì làm cho thế giới của ông quay tròn và quay tròn. Những dữ kiện thì rõ ràng với tôi, nhưng xương thịt thì không. Ông có đi Dartmouth, tôi biết. Ông thi nhảy sào với hai tay chéo nhau. Một người anh chết trong vụ đổ quân chết chóc trên đảo Bataan; một người chị chết trong một tai nạn đắm thuyền trên hồ Sasebo ở Maine. Cha của ông bị mù vào những năm cuối đời; mẹ ông tiêu phí hết một gia tài được thừa hưởng ít nhất một triệu đô la. Ông là một người phóng đãng, tôi nghe nói lại, một tên phóng đãng tóc chải láng hay la cà ở khu bến thuyền của bãi biển Old Orchard và đi xuống Miami vào mùa đông. Ông lấy mẹ tôi, cô con gái được cưng chiều quá mức của một nhà quản lý bảo hiểm người Canada ở Harlingen, Texas, khi ông đang học ở một trường bắn súng trong thế chiến thứ II. Họ sống ở Panama, nơi tôi được sinh ra. Ông chơi golf chuyên nghiệp trong một năm. Ông trở thành một người lính chuyên nghiệp, đi Anh, Triều Tiên, Đức, từ chức hai lần vì có một ai hay một điều gì đó làm ông phẫn nộ.
Nếu điều Willa Cather nói là đúng, rằng "những chất liệu căn bản để một nhà văn sáng tác được thu thập trước tuổi mười lăm", thì vào năm đó tôi là một học sinh lớp mười trường trung học Las Cruces, New Mexico, đã nói với thầy cô và với chính tôi rằng tôi sẽ trở thành một nhà văn, chất liệu thu thập được tôi thu thập từ cha tôi: góp lại từ những buổi dạ hội, hội quán miền quê, hội quán sĩ quan, của những bạn nối khố tên là Red và Goonch và bác Inches trong thế giới của một công tước. Tất cả đủ bi kịch, đủ nước mắt cho một cậu bé thi sĩ hiếu chiến là tôi. Mẹ tôi nghiện rượu, phải vào viện năm tôi mười hai tuổi; cha tôi là người hay uống. Ông bị vảy nến, đầu gối sần sùi và khuỷu tay sần sùi, ông hút thuốc như quỷ sứ, ông ném một đầu cây đánh golf vào máy truyền hình, ông mặc bộ đồ màu hồng có hoa văn để đi dự trận giải vô địch hội quán, ông thường trực nhốt tôi trên phòng, ông cho rằng tôi và em tôi phải biết sự thật và nói sự thật ấy ra không thêm bớt - đấy là chất liệu của tôi, một nồi tả pín lù sướt mướt nhầy nhụa, một thứ tiếng người bù lu bù loa, tôi hoàn toàn không có một ý thức nào về cái trách nhiệm tôi mang cho đến cái buổi chiều mùa hạ đầy cảm hứng mà tôi có ở đây phần nào là để kể về nó.
Ngày xưa có một lần (nói cho cùng, không văn hoa sáo ngữ sao, câu mở đầu cho mỗi huyền thoại chúng ta muốn trải qua và viết lại?), cha tôi và tôi ở nhà một mình. Tôi muốn nói rằng hôm đó là chủ nhật, bởi vì trong trí nhớ của tôi ngày ấy có một "cảm giác" long trọng, gần như thiêng liêng. Trong trí nhớ của tôi, trên căn gác dưới mái nhà, nơi tất cả những gì thật sự mường tượng được đều có thể được tìm thấy, có ánh nắng của ngày chủ nhật chiếu xéo, đầy bụi li ti và uể oải, nặng nề và luôn luôn có nguy cơ chùng chình đứng lại. Cha tôi, mặc quần short và áo đánh golf, đang ở trong phòng có máy truyền hình, đang uống thứ rượu rum mà ông ưa thích; ông có một thói quen, bây giờ tôi nghĩ thói quen ấy thật đáng bực mình, là bỏ những viên nước đá đã dùng nửa chừng trở lại vào tủ đá, một thói quen làm cho cô gái sau này thành vợ tôi thấy tởm mỗi lần tôi mang cho nàng một ly coca cola có mùi rượu rẻ tiền. Tôi đang ngồi ở phòng khách, tôi nghĩ vậy, đang nghe các dĩa nhạc, hay có lẽ hơn, đang đọc - Báo ảnh Thể thao, National Geographic, tạp chí Life.
Sở thích của tôi ngày ấy là những loại văn xuôi tức thì, viết mau, kiểu văn chặt và nóng. Mila 18 của Leon Uris. Người trần truồng và người chết (vẫn còn là một cuốn sách rất hay, xin nói thêm), Phiêu lưu trên đại dương của Alistair MacLean. Tôi tự thấy mình cũng viết một cuốn sách như vậy một ngày nào đó - một cuốn sách được thai nghén từ hormone của đàn ông và chí khí nam nhi kiểu vàng thô, một cuốn sách đầy chất liệu và thẳng thừng như những lời quảng cáo ngoài bìa bọc "Ông Abbott", lời giới thiệu sẽ được in, "viết như một thứ văn giết người (...)" (Chuyện này xảy ra lâu lắm trước khi tôi nhận ra Henry James đúng khi nói rằng "kinh nghiệm là một không gian của trí tuệ." ) Dù sao tôi chỉ mới là một đứa trẻ. Gầy guộc, với một cái đầu hớt sát và mười lăm cái mụn, nửa phần tâm trí của tôi bị con gái chiếm lãnh, nửa phần kia dành cho danh vọng (trong lối suy luận mà lúc đó tôi là nạn nhân, danh vọng sẽ mang lại con gái).
Từng giờ trôi qua vào buổi chiều chủ nhật ấy, như chúng luôn trôi qua khi tôi tự đắm mình trong cơn nước thủy triều nguy hiểm của quá khứ: chiếc đồng hồ ở bên trên chiếc bàn giấy cũ xưa ngân lên mỗi mười lăm phút, cha tôi đi qua đi lại giữa cái tủ lạnh và tủ rượu, Pee Wee Reese hay là Dizzy Dean nói trong căn phòng xem ti vi những gì mà bọn lưu manh nói, đứa con trai trong một gian phòng khác đang chắp nối lại trí tưởng tượng trù phú nhưng điên rồ của mình trong một huyền thoại côn đồ làm dựng đứng tóc tai, một tường thuật về súng ống và bọn ngốc cám ơn và đám táo gan đến vừa cùng lúc. Chúng tôi đang là chính mình, cha tôi và tôi: một người, già hơn, đã điều chỉnh tai để nghe những tiếng động lục cục của thế giới bên ngoài; người kia, xương thịt trẻ hơn xương thịt người vừa nói, điều chỉnh tai để nghe hoàng hôn bên trong, của trí tưởng tượng và thêu dệt. Chợt cha tôi ùa vào phòng khách, nhìn tôi như thể muốn khẳng định một lần cuối tôi đã sửa soạn đủ để hứng lấy cái gánh nặng ông sắp sửa ném trước lối đi của tôi hay chưa, và ông nói, đã hơi say một chút, "Theo tao ra đây."
Ông đã suy nghĩ về mình, bây giờ thì tôi thấy rõ như thế. Một bản kê khai, từng lằn gạch làm dấu, một gạch, rồi một gạch, rồi một gạch, rồi một gạch, đã được vạch xuống: ba lần nhồi máu cơ tim, một mảng phổi to bằng nắm tay bị mổ bỏ tại bệnh viện đa khoa William Beaumont tai Ft. Bliss, những tiếng nấc vì đau đớn trên sân golf, nỗi giận dữ khổng lồ, phiền não về một đời bị bẻ quặt đi đàng nào, những hy vọng cao đến trời ông đã tin vào, nỗi đắng cay thấy mình nhỏ nhoi hơn người hùng ông đã tự hứa trở thành. Tôi không hề biết điều này lúc đi theo cha tôi đi ra ngoài và đi vào gian chứa đồ nghề ở cuối nhà để xe. Tôi chỉ biết là ông đã say một nửa. Tôi chỉ biết là ồng năm mươi sáu tuổi, đầu bạc xám và cứng cỏi. Tôi biết ông thù ghét đi làm tại bưu điện, làm cái nghề ông làm ngày ấy, giám sát và thanh tra và, đây là điều bất hạnh lớn nhất của ông, phải báo cáo về những người ăn cắp tiền hay là tem hay là cuỗm một số báo Playboy của một khách hàng nào đó.
"Nhìn chưa, Kit?", ông nói. Ông đang đứng giữa phòng chứa đồ nghề, máy cắt cỏ ở đây, bình xăng ở đàng kia, tường treo đây những dụng cụ tôi không bao giờ hiểu nổi hết công dụng của chúng. Có những cây đánh golfl, một thùng đựng banh tập, hộp đựng dầu, dẻ lau đầy dầu mỡ, một cái cuốc, một cái cào, một cửa hàng vật dùng rẻ tiền mang mùi cũ kỹ và quá nhiều mùi lờ lợ. "Mày muốn làm nhà văn, hử?" ông nói, vung cánh tay, rồi kéo tôi theo ông. Ông gầm gừ chữ nhà văn, âm thanh chứa đầy lòng khinh bỉ dành cho sự ngu xuẩn và ngây thơ của tôi. Dụa vào tường, cao tận trần nhà, là một đống những hộp, rương, hòm từ thời quân đội hiệp chủng quốc và từ trung đoàn đã một thời là nơi nương náu của cha tôi, chủ quán Lyman Kittredge Abbott ở Portland, Maine. Bây giờ tôi thích nghĩ là tôi biết chúng tôi sắp sửa đến một nơi nào đó, cha tôi và tôi, và tôi, có lẽ là lần đầu, sẽ hiểu ông một cách chính xác. Bây giờ tôi thích nghĩ là tôi lúc đó đã đủ khôn để biết mình đang đứng trước sự hiện diện của một sự thật to lớn hơn cả hai chúng tôi, giá trả cho sự thật đó chúng tôi sẽ tiếp tục trả hoài, một sự thật khẩn thiết hơn sự hiểu biết rằng chúng ta chết đi và không có ngày sống lại. Đây là khoảnh khắc, bây giờ tôi thích nghĩ lúc đó tôi thế nào khi khám phá ra thế giới tàn nhẫn như thế nào, khi ta bị đóng đinh vào một thứ gì đó, nó bị cắm vào ta bởi một cái rìu lớn.
Rồi ông đập toang những chiếc hộp, chiếc rương nói trên. Trong cơn giận dữ, trong tiếng thở hồng hộc, ông dằn chúng xuống, từng cái một, ông la lên: "Tránh ra, cây đổ!" khi chiếc hộp trên cùng đổ nhào xuống. Chúng va xuống đất và vỡ ra, và tôi cố lui ra một chút, khi đó ông ném một chiếc sau lưng và dày xéo lên một chiếc khác để dằn lấy một chiếc thứ ba. Ông la hét, mày phải biết, tất cả giọng New England trong tiếng nói của ông vang lên trong căn phòng hỗn độn, và có lẽ tôi cũng thấy sợ. Một cơn thịnh nộ như thế tôi đã từng chứng kiến ở một nơi nào khác, trên sân golf, đàng sau tay lái của chiếc xe Ford của ông, trong phòng khách khi một nhân vật nào đó trong thế chiến hiện nguyên hình ra một tên rồ dại. Nhưng ở đây có một cái gì đó lớn hơn là một cơn thịnh nộ: ở đây có nỗi đau, một thứ đau đớn đặc biệt, riêng tư và được chôn sâu trong xương sống của cha tôi. Không có một cái tên bằng tiếng La tinh hay một bài thuốc hay một bộ máy nào khác hơn là tiểu thuyết có thể trị được nó.
"Viết nó hết ra đi!" ông đang la hét. "Viết hết những thứ trời đánh ấy ra đi!"
Và ở đây, từ một điểm X nào đó trên thế giới, số nhà 1855 Cruse, cha tôi, run lật bật vì rượu và vì cái sức nặng kinh khủng của chính đời mình, đang đánh giá một cách nghiêm trang mục đích phải viết văn. Cung cách nghiêm trang ấy lúc đó tôi chưa có được. Nó là đây, cha tôi nói. Đóng thùng và cất kỹ, lên danh sách và lưu trữ, năm từng năm trôi đi, nơi từng nơi mất đi. Nó là đây: cái đến và cái đi, gầy dựng và đổ vỡ, niềm vui và nước mắt. Nó là đây, cha tôi nói. Tất cả thịt da và thần kinh và tiếng vỡ loảng xoảng của con người, sự thiếu thốn và thừa mứa của nó, con vật bị tổn thương, quay cuồng, nói năng lạo xạo là chúng ta đây. Và tất cả những điều mày phải làm, con trai, thằng nhỏ, là viết nó ra. Viết hết những thứ trời đánh ấy ra!
Đây, tôi nghĩ, là phần cảm hứng. Nếu chúng ta viết cho một mục đích nào khác hơn là giản dị để có được những thời khắc dễ chịu - và tin tôi, có được những thời khắc dễ chịu thì không có gì sai cả - thì bởi vì chúng ta ai cũng ít nhiều cảm nhận được cái bổn phận đối với cha, đối với mẹ của chúng ta, đối với tất cả những con người dù có liên quan máu huyết hay không, những người đã nuôi nấng chúng ta; một bồn phận cũng quan trọng đối với bản chất đạo đức của chúng ta như trái tim của ta đối với sự sống, bồn phận đối với những nơi chốn chúng ta đã được nuôi lớn lên, trong những kiến thức chúng ta đã học được ở đó. Chúng ta muốn, tôi hy vọng, viết nó ra, bởi vì không có cách nào khác để thực hiện bồn phận đó hết, viết ra và biến đổi, vuốt thẳng nó ra. Khi chúng ta tốt nhất, chúng ta không chỉ viết vì tiền, dù tiền là thứ dễ chịu; cũng không viết vì sự nổi danh, dù nổi danh cũng dễ chịu như vậy. Chúng ta viết, dù là mới vào nghề hay là đã chuyên nghiệp, bởi vì, dù một nửa trong ta đầy sợ sệt, chúng ta muốn biết cái gì nằm trong những chiếc hộp và những chiếc rương mà chúng ta vác đi hoài về phía trước, qua mọi thời, những bí mật nào những chiếc hộp ấy có thể bung ra cho mọi người thấy được.
Lee K. Abbott
0 comments:
Post a Comment